Có hai phần tập giúp tập trung hình ảnh sự vật trong mắt người là giác mạc và ống kính. Giác mạc là một màng trong suốt. Bản chất của nó là một thấu kính hội tụ có công suất tới +42 đi-ốp để khúc xạ ánh sáng khi đi qua.
Trong một đôi mắt hoàn hảo, giác mạc có hình cầu đều đặn, nhẵn bóng, giống như mặt quả bóng tròn. Giác mạc hoặc ống kính với một bề mặt cong cong (khúc xạ) tất cả ánh sáng đến cùng một cách và tạo ra một hình ảnh rõ ràng.
Khi mắt bị loạn thị, giác mạc hoặc ống kính không đồng đều, cong, dốc hơn các trục khác, trông giống như quả bóng bầu dục. Khi giác mạc có hình dạng méo mó sẽ xảy ra loạn thị giác.
Sự thay đổi độ cong bề mặt giác mạc làm hình ảnh của vật hội tụ không đúng trên võng mạc. Các tia sáng đi qua trục đó sẽ hội tụ ở trước võng mạc, trong khi các tia sáng khác đi qua một trục ít cong hơn lại hội tụ ở sau võng mạc, gây ra nhìn mờ nhòe, biến dạng hình ảnh.
Loạn thị cũng có thể do ống kính bị bóp méo, gây ra loạn thị thể thủy tinh. Do vậy, ảnh của vật sẽ bị méo hình hoặc bị mờ cả khi nhìn xa và nhìn gần. Loạn thị gây mờ mắt. Mờ mắt có thể xảy ra nhiều hơn trong một hướng hoặc là theo chiều ngang, chiều dọc hoặc theo đường chéo.
Loạn thị có thể kết hợp với các lỗi khác khúc xạ khác như cận thị, viễn thị tạo thành các loại: loạn cận đơn thuần, loạn cận kép, loạn viễn đơn thuần, loạn viễn kép, loạn thị hỗn hợp. Các loại loạn thị viễn thường gây nên suy giảm chức năng thị giác nhiều hơn.
Cận thị là khi giác mạc cong quá nhiều hoặc mắt dài hơn bình thường. Thay vì tập trung chính xác vào võng mạc, ánh sáng tập trung ở phía trước của võng mạc, kết quả là xuất hiện nhìn mờ cho các đối tượng ở xa.
Viễn thị: Là khi giác mạc là cong quá ít hoặc mắt ngắn hơn bình thường. Hiệu ứng này là đối lập của cận thị. Ánh sáng tập trung phía sau võng mạc, làm cho các đối tượng ở gần đó mờ.
Trong hầu hết trường hợp, loạn thị là lúc mới sinh. Đôi khi, loạn thị phát triển sau khi một chấn thương mắt, bệnh tật hoặc phẫu thuật. Loạn thị không gây ra hoặc làm nặng hơn bằng cách đọc trong ánh sáng kém, ngồi quá gần khi xem ti vi hoặc nheo mắt.
Các triệu chứng chức năng của loạn thị là: Hình ảnh bị biến dạng, có thể nhìn mờ cả xa lẫn gần, nhức đầu và mỏi mắt (vùng trán và thái dương), nhìn phải nheo mắt, chảy nước mắt, mắt bị kích thích. Trẻ bị loạn thị thường nhìn mờ, khi nhìn lên bảng hay đọc nhầm, chẳng hạn như chữ H đọc thành chữ N, chữ B đọc thành chữ H.
Đôi khi loạn thị không có triệu chứng chủ quan mà chỉ được phát hiện khi bệnh nhân đến khám định kỳ, khám sàng lọc tại các trường, hoặc khi khám khúc xạ để đeo kính đọc sách ở người lớn.
Nếu trẻ bị loạn thị từ trung bình đến nặng không được điều chỉnh trước 5 tuổi thì thường dẫn tới nhược thị.
Loạn thị được khám và chẩn đoán cùng với các loại tật khúc xạ khác bằng 2 phương pháp đó là khúc xạ khách quan và khúc xạ chủ quan. Cả 2 phương pháp này cho kết quả loạn thị tổng.
Các phương pháp khúc xạ khách quan bao gồm: soi bóng đồng tử, khám bằng máy khúc xạ điện tử, máy đo độ cong giác mạc, bản đồ giác mạc.
Phương pháp khúc xạ chủ quan: Sử dụng đồng hồ Parent, test Fan and Block, sử dụng kính trụ chéo Jackson. Khám đáy mắt có thể thấy gai thị biến dạng.
Loạn thị nói riêng và mắt có tật khúc xạ trong nói chung là mắt có thị lực kém. Trẻ bị tật này sẽ có một số bật tiện trong sinh hoạt, học tập.
Trẻ sẽ thường xuyên phải nheo mắt, nghiêng đầu, vẹo cổ khi nhìn, đôi khi có thể có nhức đầu, nhức mắt... Trong lớp học trẻ không nhìn rõ trên bảng, hay cúi đầu lại gần sách để nhìn cho rõ, hay chép nhầm bài, đọc nhầm chữ, ảnh hưởng đến chất lượng học tập.
Vì vậy điều quan trọng là phụ huynh và cô giáo cần phát hiện sớm và gửi đi khám bác sĩ mắt để có phương hướng điều trị thích hợp.